Tránh Trời Không Khỏi Nắng

Printer-friendly versionPrinter-friendly version

Truyện ngắn

Thu Nga

 
Chị cũng không ngờ anh phản ứng mạnh như vậy. Anh đập bàn la hét và cuối cùng cầm cái ly nước lạnh quăng mạnh xuống sàn nhà, chiếc ly vừa chạm phải nền gạch hoa là vỡ vụn từng mảnh nhỏ sau một tiếng ‘’xoảng’’ lạnh lẽo. Thằng Ðức mặt mày xám xanh đứng nhình những giọt nước văng tung tóe. Chị gắt trống không:
 
--Làm cái gì dữ vậy? Cái gì cũng để thủng thỉnh rồi bàn tính chớ!
 
Anh vẫn gào lên:
 
--Vậy mà còn bàn tính nỗi gì nữa chớ? Nó muốn làm điếm nhục gia phong nên mới đòi ưng một con Mỹ đen, em còn binh là binh cái nỗi gì?
 
Thằng Ðức cố nén sợ, cãi:
 
--Lấy Mỹ đen hay Mỹ trắng thì có gì mà ba gọi là điếm nhục gia phong? con Julie cũng là người vậy ba?
 
Chị đẩy con qua một bên:
 
--Con đừng có nói nữa, để ba hết giận rồi hãy nói.
 
Anh chỉ vào mặt thằng con:
 
--Mày mà còn nói với tao về cái con nhỏ Mỹ đen đó nữa thì đừng có bước về nhà này nghe chưa!
 
Chị bấm vào tay con và cố lôi nó vô nhà trong:
 
--Con đi vô trong đi, đừng nói nữa!
 
Thằng Ðức miễn cưỡng đi theo mẹ nhưng cố nói thêm:
 
--Tại sao mình ở nước người ta mà lại kỳ thị người ta chớ?
 
Anh chạy theo tính giật tay thằng con, nhưng chị đã vội vàng đẩy nó đi nhanh; tới cửa sau chỗ ngang garage, chị đẩy nó ra ngoài và nói:
 
--Ði ra chợ mua cho má hộp sữa, nhà hết sữa rồi.
 
Chị chờ cho đứa con đi khuất, lấy chổi và khăn lông dọn chỗ chiếc ly anh đập bể. Thấy anh ngồi mặt mày cau có, chị ráng nhỏ nhẹ:
 
--Anh sao nóng nảy quá! con nó còn dại, mình từ từ dậy nó, anh làm quá thì nó lại làm liều mà thôi.
 
--Anh coi như không có nó. Em thử nghĩ nếu gia đình mình có một đứa con dâu Mỹ đen thì ăn nói làm sao với bà con gia đình và bạn bè chớ? Ðã không ưng được Việt Nam thì lấy một con Mỹ trắng cũng còn đỡ khổ, đàng này nó đòi đem một con như cột nhà cháy về nhà, coi làm sao được?
 
Anh cao giọng:
 
--Coi làm sao được?! Em nói thử nghe? coi làm sao được mà bảo anh đừng nổi nóng hả?
 
--Biết vậy, nhưng cũng từ từ rồi khuyên nhủ nó, anh la quá, nó sợ bở đi thì khổ.
 
--Nó có đi luôn anh cũng không cần. Em muốn thì đi theo tụi nó luôn đi!
 
Nói xong anh bước ra cửa. Chị vừa ngồi dọn ly bể vừa khóc thút thít. Thật khổ, con với cái. Vậy chớ nhìn gia đình anh chị ai cũng nói gia đình có phước, con cái đỗ đạt thành tài, anh chị chỉ lo ngồi đếm tiền thôi. Chị ráng cắn răng làm vui, không dám thố lộ cùng ai. Thằng lớn làm kiến trúc sư, hàng năm kiếm cả trăm ngàn, nó xây nhà lầu biệt thự cho hai vợ chồng nó ở chớ có cho anh chị đồng nào đâu. Tới ngày sinh nhật hay lễ lạc, cùng lắm nó đãi ba má ăn tiệm rồi cho năm chục, một trăm ‘’certificate’’ ở mấy tiệm bán cây, bán cỏ vớ vẩn nào đó, có lúc nó chỉ gởi một cái ‘’card’’ trống trơn.
 
Còn đứa con gái sau khi tốt nghiệp bằng dược sĩ cũng lấy một thằng nha sĩ. Hai vợ chồng làm ăn cũng khá lắm, nhưng cũng như thằng anh, nó có cho anh chị một đồng, một cắc nào đâu. Ðã vậy, về tới nhà thấy có cái gì đẹp là nó bòn rút xin đem theo. Chị thương con nên cái gì cũng ừ cho con lấy, mặc dù anh và chị đi làm lương chỉ bằng một góc tụi nó mà thôi. Thằng út Ðức thì cũng mới ra trường có một năm. Không biết nó quen với con nhỏ Mỹ đen Julie này bao lâu mà nay đòi cưới con bé nên mới ra cớ sự.
 
Chị ngẫm nghĩ về lời người xưa hay rủa sả những người không con là ‘’tuyệt tự’’, chắc những người kém may mắn đó buồn phiền lắm. Nhưng có nhiều con thì cũng đâu phải là hoàn toàn hạnh phúc?
 
Chị nhớ đến người bạn làm chung sở là Cindy. Bà này chỉ có một đứa con gái. Khi nó lên 15 tuổi thì bà ly dị ba nó, ưng một người đàn ông khác. Không biết vì sao, con bé Martha chạy qua ở với người dì và người dì đứng ra thế nó làm đơn kiện Cindy và người chồng kế với lý do ‘’hành hạ tình dục’’. Cindy ngày đêm khóc lóc, phải chạy tiền luật sư để bào chữa cho mình, đồng thời đòi lại đứa con. Nhìn Cindy gầy gò hốc hác, ai cũng tội nghiệp và mọi người đi đến quyết định là ‘’giá không có con còn hơn là có con như con nhỏ Martha’’. Không biết là chồng mới cùa Cindy thật sự có tội hay không, chỉ biết Cindy hết sức bênh vực chồng và nói Martha chỉ tưởng tượng ra chuyện này vì con bé có tật nói dối. Ai cũng chỉ biết an ủi Cindy nhưng không có cách gi giúp đỡ bà ta được. Trong khi đó, ông xếp John của chị có 2 đứa con trai, cả hai đều bỏ học lêu lổng, hút xách, một đứa bỏ học ngang xương đi làm đầu bếp.
 
Thấy con cái họ như vậy, chị cũng tự an ủi là con mình học hành khá, thành tài, có việc làm tốt. Tuy tụi nó không nuôi mình nhưng mình cũng khỏi phải lo lắng như những người bạn trong sở kia. Ngay những người Việt Nam như chị cũng vậy, đâu có phải là con ai cũng học thành tài cả đâu. Hơn nữa chị lại tự an ủi thêm, chắc con họ cũng như con chị, bị Mỹ hóa, sống theo chủ nghĩa cá nhân nên lơ là tình cảm gia đình chăng?!
Chị lật đật rủ một người bạn đi coi thầy bói thử xem vận mạng của thằng Út ra sao. Thầy bói gieo quẻ xong phán một câu chắc nịch:
 
--Số cậu này phải ưng người khác xứ mà cô này thì có làn da đậm màu lắm. Có điều sau này chị sẽ nhờ đứa con này hơn những đứa con kia.
 
Chị không dám kể cho anh nghe nhưng chỉ nói bóng, nói gió xa xôi rằng chồng vợ là duyên nợ, là có sự sắp đặt của thượng đế v...v... Anh càng nghe càng giận. Riết rồi thằng Ðức không dám về nhà và cuối cùng nó thuê nhà ở chung với con Julie. Anh giận thâm gan tím ruột nhưng biết làm sao hơn. Chị thì khóc dài, khóc ngắn thương thằng con út. Nó là đứa con có hiếu nhất nhà. Khi còn ở đại học, ngày đi học, tối đi làm thêm, nó đưa tiền hết cho chị, chỉ lấy đủ xài mà thôi. Từ hồi ra trường tới giờ, lúc nào cũng cho tiền ba má, sắm đồ đạc trong nhà không thiếu một thứ gì. Nay nó đi ở riêng một mình trong một hoàn cảnh này, chị cũng thấy đau lòng, xót dạ.
 
Vào sở chị ngồi thừ người khi bạn bè chung quanh bàn tán về đứa con gái của Cindy. Con nhỏ này mới bị tai nạn xe. Nó đã ở chung với một thằng nhóc con nghe nói cũng xì ke, hút xách ra sao đó, cứ đánh đập con Martha hoài. Từ khi Cindy thua vụ án, vừa mất tiền vừa mất cả con, người em gái được quyền nuôi nấng đứa bé thì lại không có đủ bản lãnh để mà săn sóc, dạy dỗ nên nó mới đi theo thằng kia. Khi nó nằm nhà thương thì 2 chị em Cindy làm hòa lại với nhau và cùng chăm só con Martha. Nhưng hcỉ sau dăm ba ngày bình phục thì chứng nào vẫn tật đó, con nhỏ lại giở chứng. Cindy không chịu nổi, thề sẽ không bao giờ nhìn mặt con Martha nữa, coi như nó đã chết hồi trong bụng mẹ vậy.
 
Buồn tình chị lại đi coi bói lần nữa. Người thầy bói này không phải coi bói thường mà còn biết nhập thần xem quá khứ, vị lai nữa. Chị đi cùng một người bạn khác tới nhà thầy Sáu Chiến. Căn nhà tọa lạc trong một đám đất đầy cây sồi thật là u tối. Chị sực nhớ lại căn nhà của thầy Năm trừ tà hồi xưa, khi chị còn bé hay được mẹ dẫn đi coi bói. Như vậy những ông thầy bói, thầy trừ tà đều phải ở trong những khu âm u như vậy sao cà?
 
Thầy Sáu Chiến là một người Miên,khoảng 65 tuổi. Da ông ta tái mét như xác chết chưa chôn. Chị thấy trong mình hơi sờ sợ, bấm tay chị bạn thầm thì đòi về. Chị bạn giằng tay lại gắt:’’Ðã tới nơi rồi còn đòi về!’’ Nghe nói không phải ai cũng may mắn gặp được thầy đâu. Ổng không cần hỏi mà biết mình muốn gì, mới hay chớ!’’. Chị ráng trấn tĩnh đi theo ông thầy vô nhà. Trong nhà không khí lại càng rùng rợn hơn. Trên vách treo đầy những hình bát quái, những trận đồ huyền hoặc, những chữ Tàu hay chữ Miên gì rất lạ. Giữa nhà là một bàn thờ, thờ một vị thần có 3 con mắt và rất nhiều tay, những cái tay uốn khúc như con rắn. Hai bàn chân vị thần cũng có hình thù kỳ dị chứ không phải những bàn chân thường.
 
Trên bàn thờ có cúng trái cây, bánh kẹo và có những cái hũ không biết đựng gì trong đó. Chị chăm chú nhìn, khong biết vì tưởng tượng hay là thật không rõ, nhưng chị thấy một cái hũ rung rung như có rắn di chuyển bên trong. Chị giật mình dụi mắt, ánh sáng lung linh của mấy cây đèn điện trên bàn thờ cũng có những ánh sáng xanh đỏ rất kỳ dị.
 
Chưa kịp định thần, chị nghe thầy Sáu Chiến mời chị và người bạn ngồi xuống chiếc chiếu trước bàn thờ. Ông thầy đi vào trong, vài phút sau, ông đi ra với cái khăn đỏ trùm trên đầu, che gần kín mặt. Tay ông cầm một lá bùa, một bó nhang. Ông bảo bà bạn xích ra xa xa, rõ ràng ông biết người muốn coi quá khứ vị lai là chị chớ không phải bà bạn của chị. Ông đưa nửa bó nhang cho chị. Một nửa ông cầm lấy. Ông bảo chị nhắm mắt lại. Ông đứng nghiêm chỉnh trước bàn thờ, bắt đầu lâm râm đọc thần chú. Chị thấy gai ốc bắt đầu nổi lên cùng mình, tai chị lúc đầu còn nghe ông đọc lầm thầm bằng thứ ngôn ngữ gì rất lạ. Dần dần những âm thanh biến thành một nhịp râm ran, kỳ bí, đồng thời đầu chị bắt đầu lâng lâng, tai chị lùng bùng, tay chân, thân thể cứ ngầy ngật; đôi lúc chị cố cưỡng để tĩnh lại mà không được.
 
Tự nhiên chị thấy chị đang đi trên một con đường làng đất đỏ, hai bên rừng rậm thật âm u. Chân chị mỏi nhừ, bụng thì đói cồn cào. Không biết chị đã đi như vậy bao lâu rồi, mà hình như chị đi lạc thì phải. Chị nhìn quanh quất không thấy có ai cả. Tay chị có mang một gói xách, chị cảm thấy ruột cồn cào và khát nước. Tuy chung quanh hoang vắng nhưng quãng đường bây giờ có vẻ sáng sủa hơn. Chị tìm một gốc cây và ngồi xuống. Chị lại nhìn chung quanh một lần nữa. Chao ôi! dễ sợ chưa! Chung quanh chị có người chết thì phải,không phải một người mà nhiều lắm. Những người chết hình như rất gầy ốm vì thiếu ăn hay bệnh tật thì phải. Chị đứng bật dậy. Chợt có tiếng thều thào:’’Khát quá! ai cứu tôi với?’’. Chị cố nhìn trong ánh sáng lờ mờ, thấy một cánh tay đưa lên gần đó. Chị thì thào lại:’’Ai đó? ai đó?’’. Cùng một giọng nói lúc nãy:’’Tôi đây, tôi đây...Tôi ở dưới cái hố này, tôi khát quá, cứu dùm tôi...’’. Thị mò mẫm trong ánh sáng lờ mờ và gặp một người đang nằm ngắc ngoải ở đó. Chị mở chai nước, run run đổ vô miệng người đàn ông. Chị đoán đó là người đàn ông...
Thân thể chĩ rung lên từng chập khi tiếng thầy Sáu Chiến vẫn văng vẳng rì rầm như tiếng vọng về từ một cõi âm. Bây giờ trước mặt chị là cảnh một chiếc xe đò đang bị lật nằm bên đường. Có tiếng khóc đau đớn rất gần. Lưng chị ê buốt, trên mặt chị thì có những giọt nước gì đang chảy lăn tăn. Chị nhìn sang bên cạnh thấy một cô gái da ngăm năm đen, hình như là một người Thượng, tay cô bị kẹt dưới một hòn đá rất lớn. Có lẽ khi cô rớt xuống đây thì hòn đá cũng rớt theo và rồi cuối cùng thì đè lên tay cô, không kéo ra được. Chị nhìn chung quanh để tìm người giúp chị và cho cô gái, nhưng chung quanh nhình như không có ai cả. Chị cố vận động tấm thân đau nhừ để giúp cô gái, chị lết rất chậm chạp. Chị cũng yếu quá, mà hình như chị cũng bị thương rất nặng thì phải. Chị không nhớ chị đang ở đâu, mọi thứ trong đầu chị chỉ lờ mờ mà thôi. Tiếng cô gái càng ngày càng yếu đi, đầu cô cũng bị thương, máu đóng từng cục nhỏ. Cô gần ngất lịm. Chị run run thò tay vô túi áo, lôi ra một vài cái lá nhỏ li ti. Chị cúi mình xuống mặt cô gái và nói:’’Em nhai vài cái lá này, lấy lại sức rồi chị đi tìm người cứu em’’. Cô gái vẫn nhắm mắt nhưng ngoan ngoãn há miệng ra để chị bỏ những cái lá nhỏ li ti vào miệng...
 
Chợt trên không có ánh đèn pin, có tiếng người lao xao...chị thấy thân thể được nhấc lên bở một cánh tay đàn ông. Chị cũng thấy cô gái được nhấc lên, lên cao...lên cao...Có tiếng nói lao xao đâu đó, hình như có rất nhiều người:’’May quá, cả hai còn sống, cả hai đều còn sống’’. Tiếng một người đàn ông trẻ:’’Cô gái người Thượng bị thương nặng vậy mà còn chịu đựng được, thật lạ quá!...’’.
 
Chị choàng tỉnh dậy, mồ hôi ướt đẫm mặc dù chị thấy lạnh rùng rợn. Tiếng thầy Sáu vang vang:
 
--Tỉnh dậy! tỉnh dậy!
 
Chị ngơ ngác nhìn quanh. Người bạn hình như đang ngồi bất động. Thầy Sáu Chiến đã bỏ khăn ra khỏi mặt. Bó nhang trên tay chị cháy gần hết. Thầy tới gần, lấy bó nhang ra khỏi tay chị. Mặt ông dưới ánh sáng lờ mờ giống như một con ma. Chị tính đứng dậy, nhưng ông khoát tay bảo chị ngồi im. Tiếng ông như ra lệnh, chị sợ hãi nguổi nhìn ông trân trân.
 
Ông đứng lên mở thêm một ngọn đèn. Ánh sáng làm chị yên tâm hơn. Chị nhìn người bạn, hình như bạn chị đang nhếch mép cười trấn an chị thì phải. Ông thầy ngồi xuống trước mặt chị, mặt ông hình như còn tái hơn khi mới gặp, giọng ông khàn khàn:
 
--Tôi xin nói vắng tắt để chị hiểu liền. Người đàn ông mà chị cho uống nước trong một cảnh chiến tranh chết chóc, bây giờ đã đầu thai làm con trai út của chị. Cậu này hiếu thảo lắm. Người con gái Thượng chị cho ăn lá ngải sâm trong một tai nạn xe đò sẽ là con dâu út của chị. Nhờ mấy cái lá này mà cô ta còn sức cho tới lúc cô được cứu thoát một lần với chị dưới cái hố sâu. Hai người này trong tiền kiếp cũng đã có những ràng buộc mật thiết nên bây giờ họ sẽ trở thành vợ chồng...Nhưng chị không cần phải thấy cảnh đó...Nói chung, chị và những người này có nợ duyên với nhau nên kiếp này gặp lại. Thôi, bây giờ chị có thể đi về được rồi.
 
Chị bàng hoàng đứng lên. Người bạn cũng đứng dậy. Chị với tay lấy cái bóp để lấy tiền trả thầy Sáu Chiến nhưng ông ngăn lại:
 
--Tôi biết chị đang lo lắng buồn phiền, tôi chỉ giúp chị làm phước mà thôi. Chị đừng lo, tôi không lấy tiền công đâu.
 
Chị cũng không biết nên tin những gì chị đã thấy trong lúc ‘’xuất hồn’’ cũng như những lời giải thích của thầy Sáu Chiến hay không. Chị hỏi bà bạn đi chung hôm đó thấy chị đã làm gì khi thầy Sáu Chiến đọc thần chú. Chị bạn nói thầy Sáu đọc cái gì thì chỉ có một mình thầy nghe và biết thôi chớ ai hiểu nổi. Có điều là chị bạn thấy chị lắc lư cái đầu, miệng thì lảm nhảm những gì không rõ, có lúc nghe chị rên hừ hừ như bị đau đớn lắm, còn tay chị thì nhúc nhích như cố mở một cái gì như cái chai, một lúc lâu thì lại lấy hai tay như cố xô một vật gì nặng lắm. Chị hỏi chị bạn có nên tin lời thầy Sáu Chiến không, chị bạn nói nghe đồn ông ta là Phật sống mà. Có người xin gặp năm lần bảy lượt mà không được vì ổng hay đi đây đi đó lắm. Phải có duyên lắm mới gặp, còn tin hay không thì tùy chị mà thôi.
 
***
 
Ðã 20 năm qua kể từ lúc nhờ thầy Sáu Chiến xuất hồn để thấy lại tiền kiếp của mình, bây giờ chị nhìn tóc anh bạc phơ, cơ thể ốm yếu đi đứng khó khăn mà thương hết sức. Chị lại càng tệ hại hơn. Chị đau liệt giường cũng đã gần 10 năm rồi. Những đứa con trai, con gái, dâu rể lớn của chị lo làm giàu, không ai muốn trông nom cha mẹ già yếu. Tụi nó nạnh nhau từng chút một, nói không có thì giờ để gần gũi chăm sóc cha mẹ. Kể từ lúc anh mất việc vì nền kinh tế khó khăn, nhiều hãng đóng cửa, tiền bạc anh chị dành dụm lần lượt cạn. Chỉ riêng thằng Ðức vẫn hàng tháng gặp chị, tặng cha mẹ tiền. Con Julie không hề oán trách anh chị, có lúc nó đi với Ðức tới gặp chị và nói năng rất dễ thương. Khi bác sĩ tuyên bố chị không sống bao lâu nữa, thằng Ðức và vợ xin phép rước anh chị về ở chung để tụi nó săn sóc. Lúc đầu anh còn cứng cỏi nói:’’không’’ nhưng chị và 2 đứa con năn nỉ mãi nên anh xiêu lòng. Con Julie cũng đã sanh được đứa con trai đầu lòng giống anh như đúc, chỉ khác có cái tóc quăn như trôn ốc mà thôi.
 
Ðôi lúc nghĩ đến tình đời, nghĩ đến những đứa con, anh buồn. Nhưng khi đứa cháu lai nhoẻn miệng cười- Trời đất! nụ cười chính anh!- anh lại tự an ùi, biết đâu số anh và số nó đã được cột sẵn với nhau như câu chuyện xuất hồn mà chị đã kể lại cho anh nghe!
 
Thu Nga